Hãy thử 1 biện pháp sau đây để đạt được sự tuân thủ của trẻ:

1. Cụ thể:
Chúng ta thường nghe
thấy nhiều người lớn đưa ra những quy định thiếu rõ ràng như “ con phải
ngoan ngoãn, nghe lời chứ !”, “ đừng có bầy bừa ra!”. Những đứa trẻ khác
nhau có thể hiểu những lời chỉ dẫn chung chung này theo những cách khác
nhau. Trẻ của chúng ta sẽ hiểu rõ hơn nhiều nếu chúng ta nêu thật cụ
thể điều chúng ta muốn. Một yêu cầu cụ thể mô tả chính xác việc trẻ cần
phải làm: “ nhặt những tờ giấy ở dưới đất lên!”, “ ở góc đọc sách thì
phải nói nhỏ thôi!”, “ nắm lấy tay mẹ khi qua đường!”,…. Đây là một cách
giúp trẻ dễ dàng tuân thủ theo yêu cầu của người lớn, dần dần việc tuân
thủ những quy định này sẽ trở thành thói quen.
2. Cho phép trẻ lựa chọn
Trong rất nhiều trường
hợp người lớn chúng ta có thể đưa ra vài lựa chọn cho phép trẻ tự quyết
định cách thực hiện yêu cầu của mình. Có quyền tự do lựa chọn làm trẻ
cảm thấy độc lập, tự quyết và do đó bớt đi sự phản kháng. Ví dụ như: “
Đi ăn cơm thôi, con muốn ăn bằng tô hay bằng chén?”, “ mẹ lấy hộ con
quần áo nhé hay con tự lấy lấy?”,… “ Ra lệnh” cho trẻ thì phải là thế
này hay thế khác, thường nhanh và dễ hơn nên chúng ta hay quên quyền lựa
chọn của trẻ. Nhưng để đạt được mục đích, chúng ta cần phải thay đổi.
3. Nghiêm khắc
Đối với một số vấn đề
quan trọng mà nếu không nghe lời sẽ làm nảy sinh hậu quả xấuthì chúng ta
cần phải nghiêm khắc. Một yêu cầu nghiêm khắc buộc trẻ phải ngừng hành
vi thiếu suy nghĩ của mình và tuân theo lời người lớn ngay lập tức, ví
dụ: “ Không được ném đồ chơi!”, “ buông bạn ra ngay!”. Những yêu cầu này
nên đưa ra với giọng nói đủ cứng rắn và vẻ mặt nghiêm khắc.
4. Dùng cách nói khẳng định
Trẻ dễ tiếp thu cách nói
“Làm…” ( tức là chỉ dẫn ) hơn là “ Đừng” hay “ không được…” ( tức là
ngăn cấm ). Những yêu cầu “ đừng…” hay “ không được…” tuy là cho trẻ
biết điều không được làm nhưng lại không giải thích cho trẻ biết nên làm
thế nào thay cho hành vi không được chấp nhận đó. Do đó, nói chung nên
bảo trẻ nên làm thế nào (“nói nhỏ thôi” ) hơn là bảo chúng đừng làm gì
(“đừng hét lên” ). Thường thì những vị phụ huynh độc đoán hay dùng yêu
cầu “ không được …”, trong khi những phụ huynh coi trọng uy tín có
khuynh hướng nói cách thứ hai “ Hãy làm…”.
5. Khách quan
Khi chúng ta bảo “ mẹ
bảo con đi ngủ” hay “ mẹ muốn con ăn hết bát cơm này”,… thì chúng ta đã
vô tình tạo ra một sự đối nghịch giữa ta và trẻ. Tốt nhất là nên đặt ra
một quy định chung, không mang tính chủ quan, ví dụ: “ 9 giờ rồi, đến
giờ ngủ của con rồi” hay là “ đây là phần cơm của con, ai cũng cần ăn
hết phần cảu mình”. Như vậy, nếu có một xung đột nào hay một chút cảm
xúc khó chịu nào nảy sinh thì đó là giữa trẻ và… cái đồng hồ, hay cái
quy định về khẩu phần. Và như thế nếu chúng ta nói “ Quy định là không
được ném bóng trong nhà” thì trẻ không thích cái “ quy định”, còn khi
chúng ta bảo “ mẹ cấm ném bóng trong nhà” thì trẻ sẽ không thích …mẹ.
6. Giải thích tận tường
Khi hiểu rõ nguyên nhân,
ý nghĩa của các quy định ( như để tránh nguy hiểm cho bản thân trẻ hay
cho người khác ) thì trẻ dễ nghe lời hơn là khi chúng nghĩ rằng những
quy định đó chẳng qua là ý thích của người lớn. Cho nên khi đưa ra những
quy định, cần giải thích rõ cho trẻ biết tại sao chúng cần phải tuân
theo những quy định này. Hiểu rõ nguyên nhân và ý nghĩa của các quy định
còn giúp trẻ hình thành những tiêu chuẩn hành vi và đó chính là nền
tảng của ý thức. Không cần giải thích dài dòng, phức tạp, mà cần ngắn
gọn và thực tế, ví dụ: “ đánh bạn làm bạn đau nên không được chơi thế”
hay “ nếu con lấy hết đồ chơi đi thì bạn sẽ buồn vì bạn vẫn còn muốn
chơi những thứ đó”.
7. Gợi ý hoạt động khác
Bất cứ khi nào chúng ta
muốn ngăn cấm hay giới hạn một hành vi nào đó thì ngay lập tức nên gợi ý
một hoạt động thay thế. Như vậy, lời nói của chúng ta bớt phần khó
chịu, và trẻ không cảm thấy bị từ chối. Khi đưa ra những gợi ý thay thế
chúng ta dạy cho trẻ biết rằng, cảm xúc và mong muốn của chúng có thể
chấp nhận được, nhưng vào lúc khác và ở chỗ khác. Trẻ sẽ học được cách
liề chế và thể hiện đúng lúc, đúng chỗ. Ví dụ: “ mẹ biết con rất thích
những cây bút dạ quang của mẹ, nhưng đây là những thứ để mẹ làm việc,
chứ không phải để nghịch. Đây mẹ cho con bút sáp để con vẽ”.
8. Kiên định
Một thời gian biểu linh
động ( nay ngủ 8h 30, mai ngủ 9h ), sẽ cho trẻ cái cớ để chống đối và
khó lòng trở thành nế nếp bền vững. Những quy định quan trọng cũng như
thời gian biểu hàng ngày phải đuợc thực hiện nghiêm túc ngay cả khi
chúng ta mệt nỏi hay gặp chuyện khó khăn. Nếu chúng ta cho phép trẻ “ du
di” một chút thì rồi chúng nhất định sẽ tìm cách chuồn ra khỏi giới hạn
chúng ta đặt ra.
9. Đánh giá hành vi, không đánh giá trẻ.
Dù trẻ vi phạm nghiêm
trọng đến đâu chăng nữa thì chúng ta vẫn cần nói rõ để trẻ hiểu rằng
chúng ta không đồng ý với hành vi của chúng chứ không phải chúng ta ghét
bỏ chúng. Điều này có vẻ như ai cũng biết nhưng khi bực mình, khi mất
bình tĩnh, chúng ta lại không nhớ đến nguyên tắc quan trọng này. Và đáng
nhẽ phải bảo “Đừng đánh bạn!” ( thể hiện sự không bằng lòng với hành vi
của trẻ ) thì chúng ta lại bảo “hư quá, tại sao lại đánh bạn” ( thể
hiện sự không bằng lòng về trẻ ). Thay vì bảo “ thật không thể chịu được
thằng bé này”, thì chúng ta cần phải nói rằng “ những thứ này không
phải để chơi hãy cất nó lên kệ”.
10. Kiểm soát cảm xúc của chính mình.
Những nghiên cứu cho
thấy rằng khi cha mẹ giận thì họ phạt con mình nặng nề hơn và làm cho
trẻ bị tổn thương tinh thần và có khi cả thể chtấ đau đớn hơn. Những lúc
như vậy nên cố gắng thở dài, sâu, và đếm đến mười để không mất bình
tĩnh. Rèn nề nếp, kỷ luật cho trẻ tức là dạy trẻ thể hiện hành vi, dạy
cách cư xử, và chúng ta không thể dạy được điều đó nếu chúng ta để xúc
cảm chi phối. Cho nên thay vì giận dữ hỏi “ con làm sao đấy? Lại gây
chuyện gì nữa đây?” thì hãy dành một phút bình tĩnh lại và hỏi “ có
chuyện gì vậy?”.
Tất cả trẻ em đều cần được cha mẹ chỉ dẫn để có được những hành vi đúng.
Chúng ta càng hợp lý và khéo léo bao nhiêu khi đưa ra quy định cho trẻ
thì chúng ta càng dễ dàng đạt được sự cộng tác của trẻ bấy nhiêu. Kết
quả của sự nổ lực đó là một bầu không khí dễ chịu hơn cho cả cha mẹ lẫn
con trẻ.
Sưu Tầm